03/05/2024 10:00
Là kiến trúc sư (KTS) thuộc thế hệ đầu tiên của nền kiến trúc hiện đại Việt Nam, ngoài việc thiết kế với những công trình đã đi vào lịch sử kiến trúc nước nhà, KTS Tạ Mỹ Duật còn là một tấm gương về ý thức nghề nghiệp, trách nhiệm công dân, luôn giữ vững một tâm hồn, cốt cách dân tộc trong công việc và cuộc sống. Kienviet.net xin giới thiệu cuộc trò chuyện của KTS Vũ Hiệp với TS.KTS Lê Phước Anh – Khoa Kiến trúc, Đô thị và Khoa học bền vững, Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, ĐHQGHN – cháu ngoại của KTS Tạ Mỹ Duật.

Vũ Hiệp: Xin chào KTS Lê Phước Anh. Có thể nói, một gia đình có 3 thế hệ làm KTS ở Việt Nam là rất hiếm. Như ở gia đình anh, sau KTS Tạ Mỹ Duật, có thêm những ai làm nghề kiến trúc?
KTS Lê Phước Anh: Trong số các KTS thuộc thế hệ đầu tiên của Việt Nam, những người tốt nghiệp từ Trường Mỹ thuật Đông Dương, theo tôi biết thì đúng là chỉ có vài cụ có con cháu tiếp tục nối nghiệp theo nghề kiến trúc. Gia đình ông ngoại tôi có người con trai út là KTS Tạ Mỹ Dương được nhiều người biết đến với các bài viết lý luận và tản văn về kiến trúc. Đến đời cháu thì có cô Tạ Mỹ Ngọc Anh là cháu nội, hiện đang làm trong một văn phòng kiến trúc ở Pháp, và tôi là cháu ngoại, cũng là người cháu lớn nhất của ông.
Vũ Hiệp: Cụ Tạ Mỹ Duật có giới thiệu hoặc định hướng con cháu theo nghề kiến trúc không anh?
KTS Lê Phước Anh: Hồi nhỏ, tôi rất gần gũi với ông vì cũng hay thích vẽ và thường được ông đạp xe chở đi chơi. Ông dẫn tôi đến lớp học vẽ ở Cung Thiếu nhi từ trước khi vào lớp 1 và sau đó chính ông dạy vẽ thêm cho tôi. Tôi hay bên cạnh những lúc ông vẽ tranh và hí hoáy vẽ theo bằng màu của ông. Ông là người tâm sự những cái hay, những điều thú vị của kiến trúc và cũng có ý hướng tôi đến nghề này. Tuy nhiên ham thích của tôi lúc bé lại là thế giới của những chiếc máy bay với các bản vẽ, hình ảnh từ tạp chí và làm mô hình. Ông mất đột ngột khi tôi mới 16 tuổi lúc đang là một cậu học sinh cấp III. Sự ra đi của ông đã có tác động lớn và làm tôi ý thức hơn trong chuyện lựa chọn nghề nghiệp, dù khi đó hiểu biết của mình về kiến trúc cũng còn không ít mơ hồ. Sau này khi đã trở thành KTS, tôi mới hiểu ông nhiều hơn ở khía cạnh kiến trúc và ngẫm lại những điều ông nói với rất nhiều thấm thía.
Vũ Hiệp: Ví dụ một câu mà KTS Tạ Mỹ Duật đã nói với anh về nghề kiến trúc?
KTS Lê Phước Anh: Ông tôi từng nói đại ý:“KTS là một nghề sang trọng, không phải do nó mang đến cơ hội làm việc với những người giàu, mà vì trên hết đó là một nghề đầy tính văn hóa”. Sau này trong quá trình học, rồi hành nghề và giảng dạy kiến trúc, tôi luôn nhớ lời ông dạy, đặc biệt coi trọng yếu tố văn hóa trong kiến trúc.
Vũ Hiệp: Người KTS muốn xây dựng văn hóa, có lẽ trước tiên phải có cốt cách văn hóa. Mà điều này khi đọc hồi ký của KTS Tạ Mỹ Duật, cuốn “Dấu ấn thời gian”, thì thấy rất rõ.
Thời Pháp thuộc, KTS Tạ Mỹ Duật đã thành lập văn phòng riêng, thiết kế nhiều biệt thự cho giới nhà giàu. Đạt giải Nhì cuộc thi thiết kế Đông Dương học xá, cụ được thưởng 2.000 đồng tiền Đông Dương, trong khi lương viên chức lúc đó chỉ có vài ba chục một tháng. Cụ còn sắm cả xe hơi Citroen. Phải nói đó là một cuộc sống rất phong lưu. Vậy mà khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, cụ đã lựa chọn theo Cách mạng, sau đó thì lên Việt Bắc tham gia cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ 9 năm. Lựa chọn đó chắc hẳn được thúc đẩy bởi tinh thần dân tộc?

KTS Lê Phước Anh: Không chỉ có ông ngoại tôi mà đa phần các KTS Việt Nam thời đó đều có tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Sự hưởng ứng nhiệt tình của họ trước trào lưu Kiến trúc Đông Dương với sự đề cao các yếu tố bản địa là một minh chứng rõ ràng. KTS Việt Nam thời Pháp thuộc hầu như không có cơ hội chủ trì các công trình lớn của chính quyền thực dân, dù chúng được xây dựng trên chính đất nước mình. Họ do vậy luôn có những “ấm ức” nhất định. Tôi được nghe kể lại rằng trong một lần khi làm việc đã có những tranh luận căng thẳng, ông tôi đã giơ cao chiếc ghế lên trước mặt một viên đốc công người Pháp để biểu thị thái độ.
Cách mạng đã đem lại độc lập cho dân tộc, mang đến cảm xúc hân hoan và giúp các KTS Việt Nam được chủ trì các công trình quan trọng. Hành nghề trong giai đoạn đất nước còn rất nhiều khó khăn nên công việc không phải lúc nào cũng diễn ra như mong muốn. Có đôi lúc tôi bắt gặp ông với ánh nhìn trầm ngâm, nhưng chưa bao giờ thấy ông tỏ ý bất mãn hoặc hối tiếc về những lựa chọn trong cuộc đời.
Một số bạn học, đồng nghiệp của ông đã quyết định lựa chọn vào Nam năm 1954. Sau ngày đất nước thống nhất, khi ông cùng đoàn công tác miền Bắc vào thăm TP Hồ Chí Minh cũng có những ngạc nhiên và ngỡ ngàng trước chất lượng và sự đa dạng phong phú của kiến trúc các công trình trong đó. Ông ghi nhận thành công của các đồng nghiệp miền Nam và luôn trân trọng những đóng góp của họ cho nền kiến trúc của một đất nước Việt Nam thống nhất.

Vũ Hiệp: Tôi đã đọc những ghi chép và bài viết của KTS Tạ Mỹ Duật và nhận ra rằng cụ rất quan tâm đến kiến trúc nông thôn và tính dân tộc trong kiến trúc hiện đại. Từ một KTS chuyên thiết kế biệt thự sang trọng cho giới nhà giàu thời Pháp thuộc đến một KTS say sưa nghiên cứu những mẫu nhà ở nông thôn cho người nghèo. Có lẽ, những trải nghiệm vào cuộc sống của nhân dân đã làm cho KTS nhận ra những điều trân quý của nghề kiến trúc. Kiến trúc góp phần kiến tạo xã hội, như lời của cụ: “Kiến trúc là một hiện thực, đồng thời có nhiệm vụ tạo điều kiện hiện thực cho cuộc sống”.
Về tính dân tộc trong kiến trúc hiện đại, tôi tâm đắc khi KTS Tạ Mỹ Duật viết: “Hiện đại và dân tộc không phải là phép cộng giản đơn mà là sự kết hợp khéo léo tinh vi, nhuần nhuyễn và có thẩm mỹ để xây nên nền kiến trúc dân tộc hiện đại. Cái cũ và cái mới phải được hiểu như vậy để không sa vào khuynh hướng nệ cổ, hoặc chắp vá những cái ngoại lai”. Trước những kiểu kiến trúc “Pháp giả cầy” hoặc “Chùa kinh doanh” khá phổ biến hiện nay, chúng ta lại thấy tầm nhìn đúng đắn của cụ.
KTS Lê Phước Anh: Không chỉ trong hành nghề thiết kế và viết lý luận kiến trúc, tình yêu quê hương và tinh thần dân tộc luôn xuyên suốt và biểu lộ trong nhiều mặt cuộc đời ông, từ khi còn trẻ tham gia bãi khóa ở Trường Thành Chung Nam Định cho đến khi nghỉ hưu sau này. Ngẫm lại nhiều việc, tôi nhận ra ở ông tầm quan trọng của bản lĩnh văn hóa trước ngoại lai. Được đào tạo bài bản ở Trường Mỹ thuật Đông Dương với tinh thần khai phóng, ông có thể ngưỡng mộ nhưng không “sợ” Pháp, rồi sau này cũng không “ngại” Liên Xô. Trước những công trình do Liên Xô thiết kế như Lăng Bác, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Cung văn hóa Hữu Nghị, ông đều có những phản biện, đóng góp ý kiến theo hướng làm sao để có sự gần gũi hơn với văn hóa Việt Nam.

Vũ Hiệp: KTS Tạ Mỹ Duật từng làm Viện trưởng Viện Quy hoạch Hà Nội. Hẳn tình yêu Hà Nội của cụ lớn lắm nhỉ?
KTS Lê Phước Anh: Ông thường xuyên có những đóng góp, kiến nghị để Hà Nội phát triển mà vẫn duy trì được bản sắc văn hóa và cảnh quan đặc trưng của mình. Ông cho rằng Hà Nội cần gìn giữ và phát huy 3 nhân tố cốt lõi là kiến trúc, cây xanh, mặt nước. Lúc nào ông cũng đau đáu với Thủ đô, như là một món nợ ân tình. Một buổi sáng đi qua Hồ Gươm thấy người ta xây ki-ốt quảng bá du lịch che khuất tầm nhìn đẹp, lập tức buổi chiều ông viết kiến nghị gửi các lãnh đạo thành phố để ngăn chặn khẩn cấp.
Về việc quy hoạch và quản lý đô thị Hà Nội, cảm xúc trong ông cũng có khá nhiều sự trăn trở. Ông từng bộc bạch: “Thực ra Viện Quy hoạch Hà Nội từ năm 1960 đến nay chưa bao giờ tự mình làm một phương án quy hoạch, và các lần nghiên cứu đều do Liên Xô chủ trì. Nguyên do là vì ở các cơ quan Nhà nước không có đơn vị nào hiểu biết quy hoạch Hà Nội đến nơi đến chốn. Còn các trường Đại học Kiến trúc, Đại học Xây dựng nếu có dùng Hà Nội làm đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, thì cũng chỉ đi vào từng mặt của quy hoạch và giới hạn trong phạm vi lý thuyết mà thôi”.
Có lần, ông mang về một tập bản vẽ và nói được giao nhiệm vụ (từ lãnh đạo thành phố hoặc Hội KTSVN, tôi không nhớ chính xác) cho ý kiến nhận xét và đề xuất điều chỉnh nếu cần về phương án Trụ sở UBND thành phố Hà Nội, dù khi ấy ông đã nghỉ hưu. Ông không thích phương án đó lắm vì cho rằng cách phân vị mặt đứng làm kết thúc phần mái khá đột ngột, hơn nữa hình thức của nó nhìn có vẻ quá “công quyền”, thiếu đi sự cởi mở và gần gũi với nhân dân. Tuy nhiên, ông cũng giãi bày với tôi là cần tôn trọng đồng nghiệp thiết kế công trình đó và bản thân không muốn can thiệp vào ý tưởng của người khác. Vậy nên tôi thấy dường như ông ngoại tôi chỉ miễn cưỡng nhận nhiệm vụ rồi lại trả các bản vẽ đi sau một thời gian với những nhận xét chung chung mà không có can thiệp gì cụ thể.

Công trình Trường Đại học Thương nghiệp ở Mai Dịch, Hà Nội do KTS Tạ Mỹ Duật thiết kế
Vũ Hiệp: Chuyện nghề cũng lắm buồn vui. Thế còn trong cuộc sống của cụ thì sao? Tôi được biết là KTS Tạ Mỹ Duật rất tài hoa, thiết kế công trình, quy hoạch, nghiên cứu, viết lách, vẽ tranh, cụ đều giỏi cả.
KTS Lê Phước Anh: Đối với tôi, ông thực sự là một tấm gương lớn nhưng gần gũi về tất cả những gì định nghĩa nên công việc của một KTS. Đó không chỉ là thiết kế những dự án bất kể thể loại với quy mô có thể trải dài từ một công trình nhỏ khiêm nhường cho đến quy hoạch cả một thủ đô rộng lớn, mà còn là viết báo, đóng góp ý kiến phản biện và phê bình, tham gia vào công tác đào tạo, nghiên cứu, rồi thể hiện tình yêu quê hương và những xúc cảm về đô thị, cảnh quan thiên nhiên, vùng đất và con người qua những bức tranh ký họa, màu nước, sơn dầu…
Khi ra ngoài, ông tôi thường có một phong thái lịch lãm, phong lưu, dù ở nhà nhiều khi cũng bình dị dân dã với quần đùi, áo may ô. Ông than phiền khi đi xích lô, lúc mới lên xe hay bị “hét” giá cao bởi tác phong đạo mạo làm người ta lầm tưởng Việt kiều mới về. Tôi vẫn nhớ, mỗi khi nhà có người thân từ Pháp về thăm, ông hay đi cùng họ đến khách sạn Thắng Lợi để khiêu vũ. Ông cũng rất đào hoa. Sau này khi lục lại di cảo, cả nhà mới biết ông từng có một cô gái người Nga thần tượng mãi về sau vẫn gửi ông những bức thư, quen nhau trong thời gian ông cùng đoàn cán bộ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi tham quan công tác ở Leningrad, Liên Xô những năm 1956-1957.

Vũ Hiệp: Xem ra, KTS Tạ Mỹ Duật là một hình mẫu kiến trúc sư khá lý tưởng: một người làm nghề nghiêm túc, một trí thức dấn thân, một tâm hồn nghệ sĩ. Cám ơn KTS Lê Phước Anh về cuộc trò chuyện này!
Bài viết: KTS Vũ Hiệp
Về KTS Tạ Mỹ Duật:
KTS Tạ Mỹ Duật (1910 – 1989)
- Quê quán: Khoái Châu, Hưng Yên
- Tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương khóa VII (1932-1937)
- 1937-1945: Hành nghề tự do, thiết kế nhiều biệt thự ở Hà Nội
- 1946-1954: Tham gia kháng chiến ở Việt Bắc, thiết kế và thi công Khu Giao tế Trung ương
- Là một trong 8 KTS sáng lập Đoàn KTSVN, nay là Hội KTSVN
- 1962-1975: Cục phó Cục Xây dựng Hà Nội, Viện trưởng Viện Quy hoạch Hà Nội, Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội.
- Công trình tiêu biểu: Đại học Thương nghiệp, Nhà khách Bộ Nội thương, Nhà ở tập thể Bộ Ngoại thương, Bảo tàng Hùng Vương (Phú Thọ)…