TRUNG TƯỚNG TRẦN ĐỘ, CÂY SÚNG -CÂY BÚT , ĐI SUỐT CUỘC ĐỜI

Trung tướng Trần Độ (1923 – 2002)
Trung tướng Trần Độ (1923 – 2002)

Trần Độ sinh ngày 23 tháng 9 năm 1923 – 9 tháng 8 năm 2002 ( tức ngày 1/7 âm lịch) là nhà quân sự, chính trị gia người Việt Nam, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam-vị tướng văn võ toàn tài. Trong Quốc hội Việt Nam ông giữ chức vụ Phó chủ tịch Quốc hội khóa VII, giai đoạn 1987-1992.

Trần Độ tên thật là Tạ Ngọc Phách sinh ra ở xóm Bát Điếu, làng Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải (do Doanh điền Nguyễn Công Trứ khai khẩn từ 1828) trong một gia đình công chức ở làng Thư Điền phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình (nay là xã Tây Giang huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Bố ông là thư ký ở tòa thông sứ tại Hà Nội, thường gọi là “quan phán”. Trần Độ tham gia cách mạng từ thuở thanh niên, trải nghiệm, thử thách giữ vững khí tiết của người dân yêu nước qua các nhà tù tàn khốc từ Thái Bình, qua Hỏa Lò đến Sơn La.

Ông là một vị  tướng nổi tiếng, tài kiêm văn võ, có nhiều công lao to lớn đi cùng dân tộc trong suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Ông là ủy viên Trung ương Đảng nhiều khóa, là Phó Chủ tịch Quốc hội.

Chẳng phải chỉ riêng ở quê Thái Bình nơi đã sinh ra người con ưu tú Trần Độ mà rất nhiều nơi, nhiều người, đặc biệt là các anh lính cụ Hồ chia sẻ tấm lòng với người đã khuất, được gần như cả xã hội kính trọng và thương xót vì những oan khuất. Nhiều người dân đã biết tư tưởng, bản lĩnh, lập trường, nhất là cái khí phách và cái TÂM vì nước vì dân, vì nền dân chủ và đổi mới nền chính trị cùng như đổi mới xã hội thông qua các bài viết, bài nói của cụ Trần Độ.

Ông được người đời mến mộ bởi ‘tâm sáng, chí cao, bản lĩnh phi thường, lập trường kiên định’. Ở mặt trận xông xáo tác chiến, thắng giặc rồi vẫn bền chí trung kiên, sẵn sàng bút chiến.  Những  gì mà có hại đến uy tín của Đảng, có hại cho dân, bất lợi cho nước đều không nằm ngoài tầm kiểm soát và trăn trở của ông. Sự thẳng thắn, cương trực của ông đã làm cho những vị  quan chức quyền uy, thích vuốt ve, khoái nịnh bợ khó chịu, thậm chí hằn học.

Trong một đoạn hồi ký của mình về những ngày ở Điện Biên Phủ (do nhà văn Chu Phác ghi lại, in trong tập sách do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành), Trung tướng Trần Độ đã chia sẻ những bài học mà ông đã thu lượm được khi xuống các đơn vị dưới quyền tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các cán bộ, chiến sĩ để giải quyết các khúc mắc nhằm giúp cho đơn vị đồng tâm nhất trí hào hứng bước vào những trận chiến đấu quyết liệt mới, đi tới thắng lợi sau cùng…

Khi nhận nhiệm vụ làm Chính ủy Đại đoàn 312, ông Trần Độ mới ở tuổi tam thập. Tức là khoảng cách tuổi tác giữa ông với nhiều cán bộ chiến sĩ dưới quyền là rất gần gụi. Và điều này đã giúp cho ông có thêm điều kiện để thấu hiểu hơn tâm sự và cảnh ngộ của họ, giúp họ vượt qua những tình huống khó xử hay phức tạp trong cuộc đời bộ đội. Hồi ức của Trung tướng Trần Độ liên quan tới giai đoạn Đại đoàn 312, theo ý định chiến lược của Trung ương và Tổng Quân ủy, bí mật giấu quân  trong những khu rừng già thuộc vùng Yên Bái, sẵn sàng đánh địch ra vùng tự do và cũng sẵn sàng làm đội dự bị chiến lược của Bộ, sẵn sàng thực hiện phương châm “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Đó là vào thời điểm tháng 12-1953.

Trung tướng Trần Độ kể:

“Sau một thời gian khá dài vừa chỉnh quân học tập chính trị về cải cách ruộng đất, vừa huấn luyện quân sự khá kỹ, chúng tôi cảm thấy có một sức chiến đấu mạnh chưa từng có: Tinh thần chiến đấu bắt nguồn từ một lòng căm thù giai cấp rất cao, từ cán bộ chiến sĩ ai cũng hăm hở muốn đi diệt giặc. Cán bộ được bố trí khá vững mạnh, hầu hết là các đồng chí có kinh nghiệm chiến đấu, trình độ giác ngộ chính trị tốt. Các đơn vị từ đại đội đến tiểu đoàn đều có truyền thống anh dũng và được rèn luyện qua nhiều chiến dịch. Sự đoàn kết trong nội bộ đơn vị vốn đã có từ trước, nay càng được củng cố thêm. Đối với các cán bộ chỉ huy và lãnh đạo không có gì vui sướng hơn khi thấy đơn vị mình có một lòng tin yêu nhau sâu sắc. Chúng tôi cảm thấy như phía trước một cái gì vĩ đại và vẻ vang đang chờ đón chúng tôi. Tôi muốn nhân dịp bộ đội tập kết bí mật này, xuống cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lãnh đạo còn vướng mắc trong các cấp và trong cả bản thân tôi nữa…”

Và thế là vào một hôm “trời như muốn trở rét, mưa dầm ướt át, đường rừng đã lầy lội và có chỗ rất trơn”, Chính ủy Trần Độ đã “xắn quần cao quá đầu gối, đeo chiếc xà cột vào người, chống cái gậy bằng cây hóp, xuống thăm đại đội 366 – đại đội chủ công của trung đoàn 209”. Trung đoàn 209, còn gọi là Trung đoàn Sông Lô, là nơi ông từng là chính ủy và ông Lê Trọng Tấn là trung đoàn trưởng năm 1950. Trung tướng Trần Độ kể tiếp:

“Vừa đi tôi vừa suy nghĩ miên man về nhiệm vụ sắp tới và tình hình đơn vị. Điều làm tôi băn khoăn là trong mỗi một đơn vị vẫn còn một vài chiến sĩ chưa tiến bộ, trước nhiệm vụ còn cáo ốm, chây lười hoặc ngang bướng không chấp hành mệnh lệnh. Trong khi đó có một số cán bộ mới được lên cấp thì lại tự ti, e dè hoặc lúng túng trong lãnh đạo và chỉ huy.

Trước đây đã có nhiều đêm tôi thao thức và suy nghĩ về vấn đề này, đã có nhiều lần tôi xuống đại đội nghiên cứu trao đổi  trong Đảng ủy, trao đổi với các chính ủy trung đoàn và các cán bộ khác, tìm mọi cách cải tiến phương pháp lãnh đạo của mình, của các đồng chí khác. Tôi nhớ có một đồng chí cán bộ đại đội gặp tôi, mặt nhăn nhó:

– Anh ạ, đề nghị đổi chiến sĩ khác cho tôi, nếu không tôi xin trả lại đại đoàn. Thà ít quân còn hơn có cậu ấy; thật, chỉ làm vướng chân anh em.

Có đồng chí khác tỏ ra chín chắn hơn nhưng vẫn nguyên một giọng không lấy gì làm thích thú lắm:

– Thì cũng phải kiên trì thôi, nhưng các cậu ấy khó mà tiến bộ, gặp khó khăn thì “chứng nào vẫn tật ấy”.

Những câu nói đó càng khơi sâu mối suy nghĩ của tôi. Trước đây, tôi đã biết một tiểu đội trưởng tên là H., nổi tiếng là “ngang”, lúc thì chây lười từ chối nhiệm vụ, lúc thì tỏ ra ngang tàng, anh hùng cá nhân, hay  trêu chọc, chèn cán bộ. Nhưng H. lại là một đồng chí chiến đấu rất dũng cảm, bị thương nhiều lần và được nhiều huân chương. Thấy vậy, tôi tìm hiểu kỹ về đồng chí đó. Sau nhiều lần trò chuyện thân mật, tôi rủ rỉ hỏi anh:

– Mình hỏi thật nhé! Tại sao cậu hay “ba gai” thế?

Im lặng một lát, anh đáp:

– Tôi chỉ “ba gai” tùy lúc thôi. Chắc anh cũng biết, ra trận thì tôi đã chiến đấu thế nào.

Nói đến đây anh tỏ ra kiêu hãnh, bàn tay gân guốc nắm lấy báng súng tiểu liên đã bạc phếch, đôi lông mày rậm rướn lên làm cho nét mặt của anh càng thêm vẻ bướng bỉnh. Dần dà, anh kể cho tôi nghe, anh có thành kiến rất xấu với đồng chí chính trị viên đại đội của anh, tuy anh cũng thừa nhận đồng chí chính trị viên rất dũng cảm và tận tụy. Vốn là  năm 1952 trong trận đánh Nghĩa Lộ, H. bị thương vào chân không đi được, bị lạc đơn vị, phải lê hai ngày mới tới một bản nhỏ. Anh kiệt sức tưởng như không sống được nữa. Nhưng anh đã tuyên truyền giải thích cho nhân dân, được nhân dân giúp đỡ, rồi sau anh gặp được các đồng chí tải thương cáng anh về đơn vị. Anh đã nhường cơm cho người cáng. Thế mà sau một thời gian ở quân y về tới đơn vị, đồng chí chính trị viên lại hỏi một câu, làm H. choáng váng cả người: “Sao đồng chí về quân y chậm thế? Ỷ lại vào cáng phải không?” H. nói với tôi là, vết thương đã làm H. đau đớn, mấy ngày lê đi đã đói khát mệt nhọc, nhưng lúc này câu nói của chính trị viên đã làm anh đau đớn hơn nhiều và hầu như không bao giờ quên được.

Các tướng lĩnh trong Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam tại rừng miền Đông năm 1967, từ trái sang: Nguyễn Thị Định, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Trọng Tấn
Các tướng lĩnh trong Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam tại rừng miền Đông năm 1967, từ trái sang: Nguyễn Thị Định, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Trọng Tấn

Về đơn vị H. hay trò chuyện với Hùng. Thực tâm, anh cũng không biết lúc này Hùng có tư tưởng đào ngũ. Thế là chính trị viên lại nói như dội thêm một gáo nước lạnh vào đầu anh: “Muốn đào ngũ hay sao mà làm bạn với thằng Hùng?” Từ đó, biết bao nhiêu ý nghĩ xấu về đồng chí chính trị viên đại đội của anh, luôn luôn làm anh mất thăng bằng về tư tưởng. Anh không phục đồng chí chính trị viên nọ, trước còn ngấm ngầm sau bực quá, anh nói toạc ra rồi cãi lại…

Tiểu đội trưởng H. còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện khác. Khi đơn vị cho H. đi học trường quân chính với ý định bồi dưỡng khả năng cho anh. Anh lại cho là “đẩy đi”. Khi cán bộ thực tâm săn sóc, anh lại cho là giả tạo…

Qua câu chuyện này tôi suy nghĩ rất nhiều về tác phong lãnh đạo của cán bộ. Tôi biết rõ đồng chí chính trị viên là một đồng chí rất trung thành, dũng cảm nhưng có đôi phần giản đơn và chủ quan. Chỉ có một khuyết điểm với một đồng chí tiểu đội trưởng mà câu chuyện đi xa đến thế.

015501

Cần phải rút ra ở đây một vấn đề lãnh đạo cho cụ thể.

Tôi đang mải suy nghĩ  về câu chuyện cũ thì chợt đã đi tới khu vực của đại đội 366. Các chiến sĩ chào tôi và reo lên:

– A! Chính ủy!

– Anh!

– Anh xuống với vai chủ công đấy à? Có nhiệm vụ chưa anh?

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị lập công xuất sắc, tiêu diệt cứ điểm Him Lam ngày 13-13-1954 để mở màn và bắt sống bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm này ngày 7-5 chính là Đại đoàn 312 (nay là Sư đoàn 312 thuộc Quân đoàn 1). Khi ấy, Đại đoàn trưởng là Lê Trọng Tấn (về sau trở thành Đại tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), còn Chính ủy là Trần Độ (năm 1974 được phong quân hàm Trung tướng).

Các chiến sĩ quây tròn lấy tôi, người hỏi thăm sức khỏe, người chất vấn nhiệm vụ, có đồng chí trình bày luôn thắc mắc. Vốn các chiến sĩ và tôi có một tình cảm đầm ấm như thế, vì trước đây tôi đã là Chính ủy của Trung đoàn này. Hồi đấy Chính ủy Trung đoàn đối với Đại đội chủ công có một tình cảm đặc biệt. Ăn ở, chuyện trò, tâm sự với các chiến sĩ, tôi có cảm giác như chính mình là người của Đại đội chủ công.

Tôi hỏi vui một chiến sĩ người thấp bé:

– Này, cậu thấp thế liệu có đánh nhau được không?

Chiến sĩ đó vui vẻ trả lời:

– Tôi khỏe lắm, có thể  gánh được bốn năm mươi cân, người thấp bé ra trận càng dễ tránh đạn.

Liền lúc ấy, một chiến sĩ khác bĩu môi, mắt lườm người chiến sĩ thấp bé kia, ý chê bai: mày chỉ nói khoác. Người chiến sĩ thấp bé trông thấy, mặt đỏ bừng, miệng lúng búng như định phản đối, nhưng nghĩ thế nào lại lảng đi chỗ khác. Đến khi tôi la cà vui chuyện với một tiểu đội, nhiều chiến sĩ xúm lại pha trò, lại cười rộ lên, người chiến sĩ thấp bé lại đến. Một chiến sĩ hỏi tôi:

– Chính ủy có thuốc không, cho anh em hút với!

– Mình có cả thuốc lào, thuốc lá, nhưng thuốc lá chỉ còn vài điếu…

Các chiến sĩ xôn xao, chìa ngón tay trỏ, ngón cái vê vê làm hiệu:

– Xin Chính ủy một điếu thuốc lào!

– Xin Chính ủy một điếu!

Đồng chí thấp bé cũng hớn hở như anh em khác. Nhưng anh lại chìa ngón tay duỗi thẳng theo kiểu kẹp điếu thuốc lá.

– Báo cáo Chính ủy! Cho tôi một điếu thuốc lá!

Mấy chiến sĩ trố mắt nhìn chằm chằm gần như mắng, làm cho người chiến sĩ thấp bé ngượng đỏ mặt, tiếp theo là những tiếng xì xào trêu chọc. Người chiến sĩ thấp bé lại xìu mặt xuống, tiu nghỉu chuồn đi chỗ khác. Tôi bồn chồn sốt ruột và thấy như chộp đúng được vấn đề tôi đang tìm. Tôi tìm gặp cán bộ đại đội. Một cán bộ đại đội cho tôi biết người chiến sĩ đó tên là K. và giới thiệu luôn:

-Cậu ấy lạc hậu lắm! Không hiểu gì cả, lúc hăng lên thì làm được một tí, rồi đâu lại vào đấy! Mang nặng cũng ngại, đi xa cũng ngại, chiến đấu cũng ngại…

Tôi hỏi:

– Sao mình đến thấy cậu ấy có vẻ hăng hái thế? Cậu ấy cứ xoắn xuýt lấy mình mà hỏi nhiệm vụ cơ mà?

– Anh đến thì thế, chứ anh đi thì “chứng nào vẫn tật ấy”…

Hôm sau anh em vẫn tiếp tục học tập thảo luận phương châm “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Tôi đến dự với tiểu đội có người chiến sĩ thấp bé đó.

Trời mưa, người nào lên sàn lán ngồi đều dính một tí đất. Cả tiểu đội và tôi cũng vậy. Nhưng khi người chiến sĩ thấp bé vừa bước chân lên sàn nứa, thì cả tiểu đội ồ lên, mắng mỏ, gắt gỏng tỏ vẻ nghiêm khắc và hơi thành kiến:

– Bẩn hết cả sàn rồi!

– Cậu K. mang nhiều đất lên sàn!

– Chẳng ý tứ gì cả!

Thế là suốt buổi thảo luận, K. cúi gằm mặt và lặng thinh không phát biểu một lời. Sau đó một cán bộ đại đội cho tôi biết là đơn vị anh còn có hai chiến sĩ chây lười, ngang bướng như thế nữa. Đồng chí nói:

– Chúng tôi vẫn kiên  trì giáo dục đấy, nhưng gay go lắm…”

Bằng những gì tai nghe mắt thấy và với một tư duy sáng suốt, sâu sát, Chính ủy Trần Độ đã quán triệt cho các chỉ huy dưới quyền rằng, muốn bớt đi những hiện tượng như thế, “phải xuất phát từ lòng chân thành, tình yêu thương giai cấp, nếu hắt hủi thành kiến thì không thể nào dìu dắt đồng đội, đồng chí, chiến sĩ tiến bộ được…” Ông nhớ lại:

“Tôi bắt đầu đi sâu tìm hiểu nguyên nhân của từng sự việc, của từng người. Đồng chí chiến sĩ thấp bé nói với tôi:

-Tôi không tiến bộ được, ở đây cán bộ và anh em đều ghét tôi lắm, đề nghị cho tôi đi đơn vị khác.

Tôi hỏi:

– Thế nhưng tại sao anh  em lại ghét?

Đồng chí chiến sĩ nói với giọng cảm động gần như khóc, kể đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe. Thì ra những mẩu chuyện cũng gần giống như của tiểu đội trưởng H. trước kia. Ví dụ, trước lúc đi chiến dịch, chiến sĩ cảm sốt khó chịu thì một người chỉ huy nào đó lại nhìn với con mắt nghi ngờ, hoặc buông thõng một câu: “Lại ốm à?” Đồng chí đó không  muốn giữ trung liên, muốn xin giữ súng trường vì tính tò mò, thiếu kiên nhẫn của tuổi trẻ cũng như nay muốn làm xung kích, mai muốn đánh bộc phá thì cán bộ lại cho rằng: “Lý do lý trấu để từ chối nhiệm vụ…” Như vậy sự giáo dục đã có phần không đáp ứng đúng với lo nghĩ hoặc sai lầm của anh em, rồi từ thành kiến này đi đến thành kiến khác, cán bộ đã đẩy anh em xa lãnh đạo, đi đến thiếu tin tưởng ở mình và  ở mọi người… Tôi cùng cán bộ đại đội 366 bàn bạc cách giáo dục cụ thể và chú ý theo dõi sự chuyển biến của từng người. Sau này, tôi lại cùng các đồng chí cán bộ và phòng chính trị Đại đoàn bàn bạc trao đổi và phổ biến kinh nghiệm chung cho toàn đơn vị…”

Sau đó một thời gian, ngày 24-12, đại đoàn 312 rời núi rừng Yên Bái, lặng lẽ tiến về Điện Biên Phủ… Có thể nói rằng chính công tác tư tưởng mà Chính ủy Trần Độ cùng các cán bộ chính trị của mình đã làm đã góp phần quan trọng  tạo nên một hào khí tinh thần của Đại đoàn, xứng tầm với nhiệm vụ được cấp trên tin cậy giao cho…

Tuy ông đã đi xa, nhưng  người dân đều thấy những điều ông nói, suy cảm, những đề xuất ích nước lợi dân  nay vẫn còn mang đậm tính thời sự, và giá trị hiện thực. Tâm hồn, bản lĩnh, ý chí của ông như còn tươi nguyên. Về vấn đề Đảng lãnh đạo, Trần Độ phát biểu: “Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa. Nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng”.

Anh Nguyễn Trung nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho biết trong đời có may mắn được đúng 2 lần tiếp xúc với tướng Trần Độ. Lần thứ nhất lúc Anh Nguyễn Trung đang là lính, được nghe tướng Trần Độ huấn thị trong chiến dịch Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Nghe phấn khởi thì nhiều, hiểu thì ít vì trình độ lính mới có hạn. Lần thứ hai Anh Nguyễn Trung được gặp tướng Trần Độ khi đang là đại sứ nước ta ở Bangkok Thái Lan, ấn tượng rất sâu sắc về vị danh tài võ tướng.

Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, con gái của nghệ sĩ, diễn viên nhà hát kịch Quang Thái hồi tưởng kể lại với con trai của Trung tướng Trần Độ : “Trước đây trong gia đình những khi có nói chuyện gì mà có dịp để cha tôi nhắc đến tướng Trần Độ thì đó là những lần tôi được nghe ông dành những lời ngưỡng mộ nhất, trân trọng nhất và kính nể nhất chưa từng được cha tôi nói như vậy về ai khác. ”

Ngay từ năm 1974, sau khi đi tham quan ở Cộng hòa Dân chủ Đức và trải nghiệm thực tế của bản thân, Trung tướng Trần Độ viết bức thư tâm huyết yêu cầu đổi mới (14 trang) gửi các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước: Lê Duẩn, Trường Chinh và Lê Đức Thọ.

Nội dung chủ yếu, ông kiến nghị đưa ra khỏi Đảng những nhân vật lười biếng, mất phẩm chất, chỉ biết nói về Nghị quyết của Đảng như con vẹt, không có năng lực nhưng chiếm chỗ quan trọng, là đầu mối gây bất hòa trong Đảng.

Đánh giá về Trung tướng Trần Độ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng viết (ngày 12/7/2006), nguyên văn như sau:

“Trần Độ là một thanh niên yêu nước, sớm giác ngộ và tham gia đấu tranh cách mạng, trở thành người cộng sản kiên cường. Vào quân đội, Trần Độ là cán bộ trẻ thuộc lớp cán bộ Trung đoàn, Đại đòan, Quân khu đầu tiên, trở thành vị tướng có đức có tài, đã có nhiều công lao trong  hai cuôc kháng chiến vĩ đại chống đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Trần Độ có nhiều suy tư trăn trở về con đường phát triển tiến lên của đất nước, về xây dựng Đảng, sống liêm khiết trung thực, luôn đoàn kết với đồng bào, đồng chí, đấu tranh chống  biểu hiện tiêu cực tham nhũng, quan liêu mất dân chủ.

Trong tìm tòi nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Trần Độ mạnh dạn nêu ý kiến suy nghĩ cá nhân nhưng có lúc chưa tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc. Trung tướng Trần Độ là một con người yêu nước và cách mạng, suốt đời chiến đấu cho lý tưởng của Đảng, vì độc lập của dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.

Chúng ta mãi mãi thương tiếc Trung tướng Trần Độ”.

Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (viết ngày 2/5/2007):

“Tôi biết nhiều về anh Trần Độ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả anh và tôi cùng ở Trung ương Cục miền Nam. Năm 1941 anh bị thực dân Pháp bắt kết án 15 năm tù đầy đi Sơn La. Năm 1944, anh vượt ngục về công tác ở Ban tuyên truyền Trung ương.

Anh Trần Độ cống hiến gần hết cuộc đời mình cho dân, cho nước suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trực tiếp chiến đấu và chỉ huy ở chiến trường trên cương vị Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam-Phó bí thư Quân ủy Miền (thời kỳ chống Mỹ). Đánh giá con người nói chung, sự cống hiến, một chặng đường dài trong đấu tranh cách mạng, ít ai không có vấp váp sai phạm ở mức độ khác nhau. Đó cũng là lẽ bình thường trong một chặng đường và cả cuộc đời.

Đảng ta không chủ trương lấy công thay cho lỗi lầm, ngược lại cũng không vì lỗi lầm mà phủ định hết giá trị của sự cống hiến. Vấn đề ở đây phải hết sức công bằng, có sức thuyết phục cao.

Hơn nữa, chúng  ta cần xem xét thuộc quan điểm, chủ trương như trước đổi mới và đổi mới ban đầu và ở những chặng sau này. Có những cái ta cho là đúng trước đây, khi đổi mới và càng về sau càng thấy là nó sai hoặc trước đây là sai nghiệm trọng nhưng khi đổi mới lại là đúng như trường hợp đồng chí Kim Ngọc (Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú).

Ngay cả đổi mới lúc đầu với mức hiện nay cũng có nhiều mức khác biệt, ngay cả trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Lịch sử sẽ phán xét công minh nhưng trước tiên mỗi một cá nhân  cũng phải sòng phẳng với lịch sử. Với tinh thần ấy, tôi tin việc xuất bản cuốn sách “Tướng Trần Độ” là việc làm kịp thời và rất có ý nghĩa”.

Nói về  tướng Trần Độ  phải khẳng định đó là một nhân vật văn võ toàn tài. Thế hệ chúng tôi, những người nay đã trong độ tuổi 60-70, những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước luôn háo hức, say sưa và xúc động đọc trên báo, và nghe trên đài phát thanh rất nhiều những bài viết, bài nói của một người tên là Trần Độ. Những bài báo, những câu chuyện phần lớn ông dành cho thanh niên giầu cảm xúc , hấp dẫn, hóm hỉnh và rất lôi cuốn. Cuộc đời binh nghiệp hiển hách của ông càng làm tăng thêm sức thuyết phục của những bài viết và bài nói của ông. Có lẽ những đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hai trong số những công thần hàng đầu của nước Việt Nam hiện đại về tướng Trần Độ là đầy đủ, chí tình, chí lý.

Thời gian đã trôi qua, xã hội bây giờ cái nhìn đen trắng, xấu tốt, rất may cũng dần sáng tỏ hơn  vì quá khứ và thời cuộc cay đắng, rút cục đến lúc nào đó, sẽ phải trả lại những giá trị đích thực- “Cái gì của Ceasar phải trả lại cho Ceasar” là vậy.

Không hiểu sao, tôi vẫn tin rằng ở cõi vĩnh hằng cụ Trần Độ vẫn dõi theo nhân thế mỉm cười lặng lẽ, chiêm nghiệm lại tất cả cái nhìn đi trước thời cuộc của mình, và vì thế cụ đã phải chịu nhiều oan khuất, hệ lụy. Nhưng chắc chắn cụ không hề hối tiếc. Chính sự trân trọng của xã hội những ngày này với số phận của cụ, với vong linh cụ khiến cho các con cháu của cụ ấm lòng hơn. Và tin rằng họ sẽ sống xứng đáng với cha ông mình.

Người tài ở nước ta không bao giờ hiếm. Người tài ở nước ta lại còn có một điểm khác với những nơi khác là họ tận trung với nước, họ có ước vọng được đóng góp cho quốc dân, họ có niềm tự hào sâu sắc về cội nguồn. Tìm đường cứu nước đúng là không phải đi đâu xa, những đường hướng để hưng thịnh quốc gia đều đã được vạch ra rồi. Để đánh giá đúng mức công trạng của Trung Tướng Trần Độ(Tạ Ngọc Phách), Nhà Xuất Bản Văn Học đã xuất bản cuốn: Trung Tướng Trần Độ: Cây Bút-Cây Súng Đi Suốt Cuộc Đời do nhà văn Võ Bá Cường chủ biên.

Tpi1410503868

Mở đầu tác phẩm, nhà văn Võ Bá Cường có Đôi điều với bạn đọc như sau:

“Trần Độ là một vị tướng nổi tiếng, tài kiêm văn võ. Như một số tướng lĩnh cùng thời, ông gắn chặt đời mình vào cây súng và cây bút. Là vị tướng, Trần Độ đi cùng dân tộc suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Tôi viết cuốn sách này bởi lòng kính phục nhân vật lịch sử Trần Độ… Những người cần vụ, lái xe, nấu ăn, cùng một số cụ lão thành cách mạng… đã kể cho tôi nghe cuộc sống đời thường nhưng ly kỳ và hấp dẫn của vị tướng này. Đặc biệt, tất cả những nhân chứng đều khích lệ, động viên, tạo điều kiện cho tôi làm tốt công việc. Trong quá trình viết, tôi luôn đề cao tính chân thực của lịch sử, có chỗ dùng nguyên ý của Tướng quân viết trong hồi ký… với tinh thần trách nhiệm cao, mong cho cuốn sách chính xác về tính lịch sử và các nhân vật trong đó.

… Cảm ơn Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân đã lần đầu tiên in tập sách này. Cảm ơn Nhà xuất bản Văn học đã tái bản cuốn sách, một lần nữa khẳng định công lao của Trung tướng Trần Độ với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Lần tái bản này tôi có bổ sung thêm một số tư liệu về cuộc đời sự nghiệp của Trung tướng Trần Độ.”

Để tưởng nhớ đến công lao của danh tướng Trần Độ, xin hãy cùng thắp nén nhang, và cầu chúc linh hồn cụ có linh thiêng, xin hãy phù hộ cho chúng ta  những người trần thế hiểu và dũng cảm cùng nhau xây dựng một xã hội Việt Nam văn minh, mãnh liệt tinh thần Lạc Việt, một sự thay đổi tích cực, vì dân tộc này.

Tạ Ngọc Nam-PCT.HĐHTVN-BLSHTVN sưu tầm và biên soạn ngày 30/04/2022 theo nguồn: Báo Đại Đoàn Kết ra ngày 09/08/2021, vanvn.vn…

Trả lời